Sunday, January 25, 2015

Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp dựa trên nguyên tắc hòa sắc quang học. Đây là phương pháp hoàn thiện nhất trong kỹ thuật hội hoạ sơn dầu. Phương pháp này được đúc kết từ kinh nghiệm của các bậc thầy trong lịch sử hội hoạ và đã trải qua thử thách không dưới 600 năm.

Giá trị của phương pháp này là ở chỗ:

1 – cho phép đạt được các chuyển sắc đa dạng nhất;

2 – hạn chế tối đa tác hại gây bởi phản ứng hoá học giữa các màu khi bị pha trộn trên palette;

3 – giảm bớt khó khăn về kỹ thuật trong quá trình dựng một tác phẩm có giá trị nghệ thuật cao;

4- bảo đảm sự trường tồn của tác phẩm.

Quá trình dựng một bức tranh sơn dầu bằng phương pháp vẽ nhiều lớp bao gồm các bước chính sau đây: 1) Tạo màu nền, 2) Can hình, 3) Imprimatura, 4) Vẽ lót đơn sắc, 5) Lên màu, 6) Vẽ láng, 7) Hoàn thiện và 8) Phủ varnish bảo vệ.

1. Tạo màu nền

Màu của nền và imprimatura (Xem mục 3) định ra hòa sắc chung cho toàn bộ bức tranh, tương tự như giọng chủ của một bản nhạc. Ánh sáng chiếu lên mặt tranh, xuyên qua các lớp màu trong, đập vào mặt nền, bị hấp thụ một phần và phản xạ lại một phần. Phần phản xạ liên kết các sắc độ trên tranh, tạo ra sự hài hòa về màu sắc. Vì thế màu nền cần phải là màu đục nhất. Những lớp màu trong phủ trên nền có màu tạo ra độ sâu trong tranh, tăng tính biểu hiện và độ rực rỡ của màu sắc. Tùy theo độ dày của lớp màu và cường độ ánh sáng, các lớp màu trong phủ lên nhau trên nền có màu tạo nên rất nhiều chuyển sắc, trong khi các lớp màu đục có rất ít chuyển sắc, và giảm độ tinh khiết khi pha trộn với màu trong. Vì thế hoà sắc đẹp nhất của màu đục với màu trong là hòa sắc được tạo bởi láng lớp màu trong lên trên lớp màu đục đã khô.

2. Can hình

Hình hoạ bố cục của bức tranh có thể được vẽ thẳng lên canvas hoặc vẽ lên giấy rồi can lên canvas. Nên tránh dùng bút chì để vẽ lên canvas vì không thể nào xóa được hết hoặc che kín toàn bộ các nét chì graphite bằng màu, nhất là khi vẽ mỏng. Nếu vẽ hình thẳng lên canvas thì nên dùng màu nước hay mực Nho.

Để can hình từ giấy lên canvas, có thể dùng giấy can để sao hình. Sau đó quết lên mặt sau của tờ giấy can một lượt dung dịch loãng gồm ultramarine hay umber sống (raw umber) hòa với dầu thông (spirit of turpentine). Sau khi dầu thông bay hơi hết, tờ giấy can sẽ có một mặt phủ một lớp màu ultramarine hay umber, trở thành một tờ giấy “than”. Úp mặt “than” lên canvas, rồi dùng đầu cứng như bút bi, bút chì vạch theo các nét của hình vẽ để can hình vẽ lên canvas.

Sau khi hình vẽ đã được can lên canvas, dùng bút lông chấm màu nước hay mực Nho viền lại, rồi để khô. Hãm hình đã can bằng một dung dịch keo, vị dụ 2 – 3% gelatin, rồi để khô (khoảng 3 – 5 tiếng).
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Bút lông (của Nhật) chứa sẵn mực Nho dùng để viết chữ Hán, rất tiện cho việc tô lại hình can lên canvas.

3. Imprimatura
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Leonardo da Vinci
Đầu phụ nữ (La Scapigliata) (kh. 1508)
sơn dầu trên canvas, 24.7 x 21 cm.
Leonardo dùng trắng chì và umber vẽ trèn imprimatura màu nâu.


Imprimatura là lớp màu mỏng và trong phủ lên toàn bộ bố cục, cùng với màu nền tạo nên hòa sắc chung cho cả bức tranh, và tạo “chân” cho sơn dầu bám chặt vào nền. Màu imprimatura cần khô nhanh, như màu sienna sống, màu nâu đỏ venice. Dung dịch pha màu để vẽ imprimatura cần chứa nhiều dung môi và ít dầu tạo màng, ví dụ theo tỉ lệ (công thức phổ thông):

dầu lanh : dammar varnish : dầu thông = 1:1:6

4. Vẽ lót đơn sắc
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Vẽ lót đơn sắc của Jan Van Eyck (trái) và Rembrandt (phải)

Lớp vẽ lót (underpainting (E), ébauche (F), подмалевок (R)) là lớp màu đầu tiên nhằm mục đích tạo sáng tối, lên hình khối. Các màu được dùng để vẽ lớp lót đơn sắc phải là màu khô nhanh như trắng chì, nâu đất tối (umber), nâu sienna, vàng ochre. Không nên dùng trắng kẽm để vẽ lót vì lâu khố, độ phủ kém, dễ gây bong nứt theo thời gian.

Có thể dùng tempera để vẽ lót, nhưng sau đó nên phủ lên một lớp dung dịch keo động vật (như keo da thỏ) rồi trên lớp dung dịch keo đã khô lại phủ một lớp dammar varnish. Nếu dùng tempera để vẽ lót thì nên tránh vẽ trên nền sơn, vì độ hút kém, khó bám, mà nên dùng nền nhũ tương hoặc nền phủ acrylic gesso có độ hút nhất định. Vẽ lót cần mỏng, đều, để lớp lót khô nhanh và khô hoàn toàn trước khi lên màu. Lớp vẽ lót cần được thực hiện rất cẩn thận, hoàn thiện tối đa, tương tự như bức tranh đã hoàn thành nhưng đơn sắc, trong đó hình hoạ và hình khối đã được hoàn thiện.

Dung dịch pha màu vẽ lót có tỉ lệ như sau:

dầu lanh : dammar varnish : dầu thông = 1:1:5.

5. Lên màu

Đây là giai đoạn vẽ màu và chi tiết cho bức tranh. Trước khi vẽ màu nên phủ lên toàn bố cục một lượt dung dịch pha màu như được dùng cho lớp imprimatura (mục 3) hoặc một lớp retouching varnish. Màu được lên từ từ, lớp nọ chồng lên lớp kia, các chỗ sáng cần được vẽ dày bằng màu ấm, các chỗ trung gian và tối cần được vẽ mỏng bằng màu lạnh.

Dung dịch pha màu thường dùng trong giai đoạn này có tỉ lệ như sau:

dầu lanh : dammar varnish : dầu thông = 1:1:4,

sau đó giảm dần dầu thông khi vẽ các lớp trên (ví dụ thành 1:1:3).

Khi vẽ những chỗ có màu sáng, nên thay dầu lanh trong dung dịch bằng dầu lanh đặc (sun-thickened linseed oil), dầu đọng (stand oil), hoặc dầu hạt óc chó (walnut oil) để tránh ngả vàng.
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Peter Paul Rubens
Dựng Thánh giá (1610 – 1611)
sơn dầu trên canvas, 462 x 341 cm.
Rubens dùng màu cục bộ (đỏ, vàng và lam) phủ lên lớp vẽ lót.


Dung dịch pha màu dùng dầu lanh, dammar varnish và dầu thông trên đây là dung dịch phổ thông. Khi đã có kinh nghiệm và kỹ năng tốt, hoạ sĩ có thể dùng các dung dịch khác như dầu lanh đặc (hay dầu đọng) pha với Venice turpentine, copal varnish và dầu oải hương (lavender oil) mà các bậc thầy Phục Hưng và Baroque từng dùng (Xem chi tiết trong bài “Chất kết dính và dung môi của sơn dầu“.)

6. Vẽ láng

Vẽ láng (glazing (E), glacis (F), лессировка (R)) chỉ áp dụng cho những lớp trên cùng. Ánh sáng phản xạ từ lớp màu bên dưới khi đi qua lớp màu trong bên trên tạo ra hòa sắc quang học, không thể đạt được bằng pha trộn màu trên palette. Láng thường được vẽ như một lớp màu sẫm, trong và mỏng phủ lên một lớp màu sáng hơn (đã khô), ví dụ ultramarine láng lên nền vàng. Nếu láng đỏ lake lên trên đỏ cadmium sẽ được tông màu rất tinh khiết và sâu vì lớp đỏ lake láng hấp thụ các tia sáng có màu phụ như lục. Kỹ thuật phủ một màu sáng bán đục lên một màu tối hơn (đã khô) để làm mềm các đường viền, tạo hiệu quả viễn cận không khí, lớp phấn trên da thịt v.v. được gọi là day (scumbling). Để láng và day cần có một dung dịch đặc biệt, chứa nhiều dầu tạo màng (dầu lanh) và ít dung môi (turpentine) hơn, đồng thời cần bóng và ít ngả vàng. Sơn dầu phải được hòa với nhiều dung dịch cho đủ loãng và trong để có thể láng trơn tru trên lớp sơn đã khô hẳn.

Có nhiều công thức pha dung dịch vẽ láng, ví dụ:

9 phần Dammar varnish
9 phần dầu thông
4 phần dầu đọng
2 phần Venice turpentine.

Có thể gia giảm tỉ lệ trong các công thức dung dịch tùy theo điều kiện môi trường xung quanh như nhiệt độ, độ ẩm, số lớp sơn, kỹ thuật vẽ, và tính chất của hoạ phẩm cụ thể.
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Chi tiết trong “Người phụ nữ trẻ bên đàn virginal” (1670 – 1672):
Vermeer đã láng lục đất lên màu hồng của da thịt để tạo bóng đổ.


7. Hoàn thiện

Đây là giai đoạn cuối cùng. Hoạ sĩ nhìn lại toàn bộ bố cục, sửa các chi tiết sao cho toàn bộ bề mặt bức tranh được hoàn thiện, không bỏ sót chỗ nào. Một trong các cách kiểm tra bộ cục, hình khối và hòa sắc là nhìn bức tranh ở khoảng cách xa, nhìn bức tranh lộn ngược, hoặc nhìn hình phản chiếu trong gương của bức tranh. Cũng có thể chụp lại bức tranh rồi cho vào PC có màn hình rộng để nhìn rõ các chỗ cần sửa.

8. Phủ varnish bảo vệ
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

 

Satin varnish của hãng Lefranc & Bourgeois được chế từ nhựa acrylic, ketone, silica và dầu mỏ tinh chế, có độ bóng vừa phải, không ngả vàng và chống được tia cực tím.


Varnish bảo vệ vừa tạo cho bức tranh độ bóng đồng đều, vừa ngăn được mặt sơn tiếp xúc với bụi và các ô nhiễm trong môi trường. Varnish còn khiến hoà sắc của bức tranh trở nên trong và sâu hơn. Varnish tốt chậm đổi màu theo thời gian và có thể gỡ đi được sau khi đổi màu.

Điều kiện tối quan trọng để có thể varnish một bức sơn dầu là tranh phải đủ khô để varnish không tác dụng với màu trên tranh. Nếu không, sau này khi gỡ varnish ra, lớp màu trên mặt tranh sẽ bị hư hại, đặc biệt là các lớp láng. Vì thế chỉ phủ varnish sau khi tranh đã để khô ít nhất khoảng 6 – 12 tháng.

Tuyệt đối tránh ẩm và bụi vì nước sẽ gây ra các bọt li ti trong lớp varnish khô hoặc làm đục varnish, còn bụi sẽ nổi lên lổn nhổn trên mặt varnish khi khô, đặc biệt là ở các chỗ tối, làm xấu cả bức tranh. Vì thế, nên chọn ngày hanh khô để phủ varnish. Trước khi phủ varnish, nên dùng vải mềm tẩm white spirit lau sạch bụi khỏi bề mặt bức tranh, để thật khô rồi mới quết varnish.

Khi quết varnish, đặt bức tranh nằm trên mặt phẳng như sàn nhà, bàn trong phòng thoáng gió nhưng hạn chế bụi tối đa, và dùng bút bẹt to bản (rộng khoảng 7 – 9 cm), lông mềm, chất lượng tốt để lông khỏi rụng, dính vào mặt varnish khi quết. Bút lông như vậy thường đắt tiền (khoảng 10 – 20 USD). Vì thế, bút quết varnish tốt nhất là loại bút foam (bọt biển) vì mịn, không để lại vệt bút, và rẻ tiền (1 – 2 USD), dùng một lần xong có thể vứt đi, khỏi phải ngâm rửa. Quết bút theo một chiều, ví dụ từ trên xuống dưới và chuyển dần từ trái sang phải. Sau khi quết varnish lên toàn bộ bề mặt bức tranh, nhìn nghiêng theo bề mặt để tin chắc không còn chỗ nào hở (chưa được phủ varnish). Các vệt bút, nếu có, sẽ tự hòa vào nhau khi varnish khô, tạo nên một bề mặt nhẵn, phẳng và bóng hoặc matte tùy loại varnish.
Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp

Bút bọt biển

Phương pháp vẽ sơn dầu nhiều lớp đòi hỏi, bên cạnh tài năng, một lòng say mê tìm tòi và thử nghiệm, đức tính kiên trì cũng như cảm giác về sự hoàn hảo. “La Mã không được xây trong một ngày.” Nên nhớ rằng các bậc thầy hội hoạ từng vẽ hàng chục năm mới đạt được trình độ hoàn thiện trong kỹ thuật vẽ nhiều lớp. Đến thiên tài kim cổ vô song như Leonardo da Vinci cũng phải trải qua không dưới 15 năm để đi từ bức “Lời truyền tin” (1472 – 1475) vẽ bằng tempera và sơn dầu tới bức “Người đàn bà với con chồn” (1490) (không vẽ láng), và khoảng 30 năm để đạt tới trình độ trong kiệt tác “Mona Lisa” (1503 – 1506).

Tác giả Nguyễn Đình Đăng

Monday, January 19, 2015

Kiến trúc Pháp cổ ở Hà Nội và bài toán bảo tồn

Các công trình kiến trúc Pháp cổ đã và đang mang lại cho Hà Nội một vẻ đẹp phong phú. Tuy nhiên cho đến nay, nhiều không gian, công trình kiến trúc kiểu Pháp đã mất đi dáng vẻ ban đầu.

 Biệt thự Pháp cổ ở số 22 Tôn Đản.
Biệt thự Pháp cổ ở số 22 Tôn Đản.
Kiến trúc Pháp - Một nửa của Hà Nội nghìn năm
Là Thủ đô của Đông Dương trong suốt 80 năm Pháp thuộc, Hà Nội đã trải qua một quá trình thay đổi sâu sắc về diện mạo đô thị để ngày nay trở thành một nhân chứng có giá trị đặc biệt nhờ chất lượng kiến trúc, mật độ và sự đa dạng của không gian đô thị. Các di sản kiến trúc Pháp ở Hà Nội không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị văn hoá, lịch sử, thẩm mỹ... Những biệt thự gia đình nằm trong khuôn viên nhiều cây xanh, những toà công sở bề thế, nghiêm trang theo lối Pháp đã chứng tỏ được sự phù hợp với điều kiện khí hậu của Việt Nam. Thêm nữa, những công trình đó đứng xen lẫn một cách hài hoà với những ngôi nhà mang phong cách kiến trúc Á Đông và bổ sung lẫn nhau trong các khu phố Pháp đã tạo nên diện mạo đặc trưng của Hà Nội mà GS.KTS. Hoàng Đạo Kính đã gọi chúng là "một nửa của Hà Nội nghìn năm".
Bắt đầu từ năm 1884, sự du nhập của kiến trúc Pháp vào Hà Nội với phương pháp xây dựng đô thị châu Âu, hình thức kiến trúc có quy hoạch và có thiết kế đã trở thành bước ngoặt khi làm thay đổi mô hình đô thị kiểu cũ với những phố cổ không có cây xanh, nhà ống, ngõ nhỏ của Hà Nội. Rồi sự thay đổi trong nguyên liệu xây dựng: những nguyên liệu quen dùng trước đó như tre, nứa, lá, gỗ, ngói không còn được sử dụng nhiều nữa, người ta biết tới xi-măng, cốt thép. Sự thay đổi càng ngày càng đậm nét khi những công trình nguyên mẫu kiểu Pháp được cải tiến dần dần thành những công trình kiểu Pháp có yếu tố Việt Nam (mà sau này giới khoa học gọi là kiểu kiến trúc Đông Dương) tạo nên một nét hoàn toàn riêng biệt cho kiến trúc Hà Nội.
Bài toán bảo tồn: Khó
Thực tế, trong số các công trình di sản kiến trúc Pháp còn lại tại Hà Nội, các công trình sử dụng vào mục đích công cộng đang được bảo vệ rất tốt và hầu như giữ nguyên trạng khi mới xây dựng (Nhà hát lớn, Bảo tàng Lịch sử, Bưu điện Bờ Hồ...); Các khu phố Pháp như Chu Văn An, Nguyễn Du, phía Bắc Hồ Thiền Quang giao cho nhà dân cũng được bảo vệ dù mức độ nguyên trạng không được như các công trình công cộng. Sự biến dạng trầm trọng nhất thuộc về các công trình ở khu vực Hàng Ngang, Lý Thường Kiệt, Hàng Bài, Trần Hưng Đạo... do mức độ tập trung dân cư cao, sử dụng vào mục đích thương mại nhiều mà không có sự tái đầu tư.
Theo số liệu thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội, đến cuối năm 2008, Hà Nội chỉ còn 970 biệt thự thuộc quản lý Nhà nước, nhưng có hơn 80% số biệt thự đã bị biến dạng, một số biệt thự bị bỏ hoang, một số sở hữu chung của nhiều cá nhân gây khó khăn cho việc tu bổ, quản lý, một số bị chia nhỏ để biến thành "nhà tập thể". Trong bối cảnh phát triển đô thị hiện nay, nhiều khu phố kiến trúc Pháp mất đi cảnh quan chuẩn mực trước đó, mất đi những không gian kiểu mẫu đã từng tồn tại trong lịch sử. Điều này dẫn đến nguy cơ Hà Nội sẽ mất đi những khu phố đặc trưng, ghi nhận một giai đoạn phát triển của lịch sử Thủ đô.
Ngay lúc này, Hà Nội cần phải thống kê lại đầy đủ và chi tiết các công trình kiến trúc Pháp còn lại của thành phố, từ đó nghiên cứu các tiêu chí về kiến trúc, cảnh quan, quy hoạch để đưa ra những kế hoạch bảo tồn, phát triển. Những vấn đề đơn giản cần được giải quyết trước và giải quyết dứt điểm như cần đưa ra quy định về màu sắc cho những khu phố kiến trúc Pháp, vấn đề bảng, biển hiệu trước những biệt thự đã được "thương mại hoá" thành cửa hàng. Trong quy hoạch các khu đô thị mới, nên cân nhắc về tình trạng lạm dụng quá nhiều yếu tố kiến trúc Pháp để tổng thể kiến trúc Hà Nội không bị phá vỡ. Việc một số biệt thự bán hoặc giao cho tư nhân cải tạo đúng quy định và sử dụng với chức năng phù hợp (làm nhà hàng, khách sạn, nhà triển lãm) cần được khuyến khích và nhân rộng sẽ góp phần gìn giữ di sản, đồng thời vẫn hỗ trợ cho quá trình phát triển kinh tế của nhân dân.


Tin tức nguồn: http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=183151#ixzz3PHZcyool
doc tin tuc www.xaluan.com

Kiến trúc nhà công cộng phong cách Art Deco ở Hà Nội

Kiến trúc nhà công cộng phong cách Art Deco ở Hà Nội

Năm 1918, chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc, nước Pháp ra khỏi cuộc chiến với tư cách người thắng trận, song trên thực tế, kinh tế Pháp đã suy thoái nghiêm trọng, vị thế của nước Pháp trên trường quốc tế cũng bị lung lay. Do vậy, một chương trình khai thác thuộc địa trên quy mô rộng lớn nhằm khôi phục nền kinh tế và địa vị của nước Pháp trên trường quốc tế đã được thông qua năm 1921.
Tại Hà Nội, nhiều doanh nghiệp lớn của Pháp cùng một số doanh nghiệp nhỏ của người Hoa, người Việt cũng ra sức đầu tư xây dựng trụ sở giao dịch, nhà máy, xí nghiệp. Số lượng người Pháp tới đây làm việc ngày càng nhiều nên một số trường học, bệnh viện nhà hàng cũng được xây thêm.
Cùng trong thời gian này, ở Pháp và Châu Âu đang thịnh hành một trào lưu kiến trúc mới dựa trên cơ sở thẩm mỹ lập thể, sử dụng chủ yế những khối hình kinh điển trong bố cục không gian, bài bác tính đối xứng nghiêm ngặt và sự rườm rà trong các chi tiết của kiến trúc Tân Cổ điển đang rất thịnh hành trước đó. Ý tưởng thiết kế mới này hoàn toàn phù hợp với những công trình kinh tế mang tính công năng cao, nên nhanh chóng có được  sự đón nhận nhiệt tình của các nhà đầu tư bất động sản ở Hà Nội lúc bấy giờ. 

Ảnh 1: Nhà in IDEO (nay là trung tâm văn hoá Pháp l’Espace) 
Trong những năm 1920 – 1930, rất nhiều công trình công cộng lớn theo phong cách Art Deco được xây dựng ở Hà Nội: Nhà in IDEO, Trụ sở công ty AVIAT, trụ sở Crédit Foncier, chi nhánh Ngân hàng Đông Dương, trụ sở Phòng Thương mại (Chambre du Commerce), nhà thương René Robin, nhà hàng Godard....
Năm 1907, nhà máy in IDEO bắt đầu được xây dựng, ban đầu đó chỉ là một xưởng in một tầng trên phố Paul Bert (nay là phố Tràng tiền), đến những năm 1920 một toàn nhà 6 tầng được xây dựng ở vị trí phía ngoài xưởng in giáp mặt phố, tới lúc này công năng của một nhà máy in mới hoàn chỉnh. Tầng 1 là xưởng đặt máy móc và kho giấy với mặt bằng được trải rộng về phía sau toà nhà, các tầng trên bố trí các phân xưởng phù trợ như sắp chữ, sửa bản in và bộ phận hành chính.
Toà nhà chính của nhà in IDEO là một tác phẩm kiến trúc hiện đại đầy ấn tượng với thời bấy giờ. Nhà bố cục kiểu đăng đối với khối giữa 6 tầng, hai bên là 2 khối nhà 5 tầng. Tầng 1 gồm sảnh chính, lối tiếp cận cho xe ra vào, toàn bộ không gian còn lại mở rộng và tạo ra một không gian liên tục với khu xưởng phía sau toà nhà. Cửa kính chiếm diện tích chủ đạo trên mặt đứng, được phân vị theo phương ngang ở khối trung tâm và theo phương đứng ở hai khối phụ. Tuy nhiên có thể vì đây là công trình công cộng đầu tiên được xây dựng ở Hà Nội nên những giải pháp thích ứng khí hậu nhiệt đới chưa được chú trọng đầy đủ.
Với chiều cao 6 tầng, toà nhà IDEO được coi là công trình kiến trúc cao nhất Hà Nội thời Pháp thuộc, kỉ lục này còn được giữ tới tận thập kỷ 1990 khi khách sạn Hà Nội cao11 tầng đi vào hoạt động.

Ảnh 2: Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương (thiết kế ban đầu) 
Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương ở Hà Nôi được đặt ở vị trí rất đắc địa, nằm án ngữ đồng thời cũng là điểm kết thúc trục vườn hoa Paul Bert đặt vuông góc với Hồ Hoàn Kiếm. Thiết kế ban đầu do KTS Félix Dumail hoàn thành năm 1928 theo phong cách Tân Cổ Điển để có được sự hoà hợp với phong cách kiến trúc các toà nhà nằm hai phía của trục quy hoạch này như Toà Thị chính, Kho bạc, Bưu điện, Phủ Thống Sứ. Tuy nhiên đến khi xây dựng vào đầu những năm 1930 thì hình thức kiến trúc công trình đã được KTS Georges Trouvé thiết kế lại theo phong cách Art Deco điển hình.
Cấu trúc toà nhà gồm 3 tầng: Tầng trệt xây tường rất dày, cửa sổ mở nhỏ là nơi bố trí các kho tiền, kim loại quý và các phòng phục vụ. Tầng một là không gian giao dịch thông tầng ở khu trung tâm với những vòm bê tông cốt thép lắp kính trên mái. Tầng hai gồm các phòng làm  việc bố trí ở ba phía bao lấy khối trung tâm. Cấu trúc nêu trên cho thấy công trình được thiết kế theo mô hình chủ đạo của các ngân hàng Pháp thời bấy giờ. 
Ngôn ngữ kiến trúc chủ đạo của công trình là khối hộp hình học đơn giản với những ô cửa mạch lạc theo chiều đứng. Chính sảnh là một khối hình bán trụ được trang trí bằng các mảng tường hoa có tác dụng lấy ánh sáng tự nhiên, phía trên là các khối hình tròn có bán kính nhỏ dần, thực chất để che một mái vòm có các lỗ kính lấy sáng được tổ chức theo hình tròn và hình tia rất thú vị. Toàn bộ hệ thống cửa sổ kính được bố trí lùi lại so với mặt tường ngoài để tránh ánh nắng chói chang vùng nhiệt đới, bên ngoài cửa kính có bố trí một hệ thống cửa cuốn gỗ di rộng để che nắng khi cần thiết nhưng khi cuốn lên thì ánh sáng tràn vào nhà qua các tấm kính lớn kết hợp với ánh sáng từ các vòm trần tạo ra một không gian giao dịch ngập tràn ánh sáng tự nhiên.

Ảnh 3: Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương (nay là trụ sở Ngân hàng nhà nước) 
Dù thiết kế theo phong cách Art Deco điển hình, kiến trúc sư G. Trouvé cũng mang một phần thần thái của kiến trúc nhiệt đới Việt Nam vào toà nhà khi xử lý bộ mái đua rất rộng, phía dưới là một loạt các hoạ tiết trang trí mô phỏng các hoạ tiết Việt Cổ. Hệ thống tường hoa trang trí và che nắng ở chính sảnh cũng như hệ thống cửa cuốn che nắng là một biểu hiện sáng tạo của tác giả khi đặt một công trình Art Deco vào điều kiện khí hậu nhiệt đới của Hà Nội.
Với tỷ lệ hình khối hài hoà, phong cách xử lý mặt đứng mạch lạc, không gian nội thất tràn đầy ánh sáng, lại được xây dựng ở một vị trí đắc địa, Trụ sở chi nhánh Ngân hàng Đông Dương có thể được coi là công trình Art Deco hoàn hảo nhất ở Hà Nội. 
Trong những năm 1930, một công trình kiến trúc lớn trên đại lộ Francis Garnier (Phố Đinh Tiên Hoàng hiện nay), trụ sở Quĩ tín dụng bất động sản cũng do KTS G. Trouvé thiết kế được xây dựng . Đây là một công trình thương mại điển hình với mặt đứng bám theo 3 mặt phố, trong đó có hai trục thương mại lớn của Hà Nội lúc bấy giờ là phố Paul Bert và đại lộ Francis Garnier nối với đại lộ Đồng Khánh (phố Hàng Bài). Toà nhà gồm 3 tầng, tầng 1 được xây trên toàn bộ diện tích khu đất hình chữ nhật với hệ lưới cột bê tông cốt thép tương đối lớn cho phép sử dụng làm nơi giao dịch với khách hàng. Hai tầng trên hình chữ U bám theo mặt phố theo dạng nhà hành lang giữa kết hợp hành lang bên bố trí các phòng làm việc. Giao thông theo chiều đứng bao gồm cầu thang chính và thang máy nhìn ra đại lộ F. Garnier, ngoài ra còn có 2 cầu thang phụ ở cuối hai cánh nhà, trong đó ở phía phố Paul Bert ngoài cầu thang bộ còn có một thang máy nhỏ.

Ảnh 4: Trụ sở Quĩ tín dụng bất động sản (nay thuộc bộ Công thương) 
Kiến trúc toà nhà cũng thể hiện rất rõ vai trò công năng. Lối ra vào chính khu giao dịch tầng 1 được đưa ra các ngã tư và ngã ba với sảnh đón rộng nhằm tăng cường khả năng tiếp cận của khách hàng, các cửa kính rộng mở ra đường phố kết hợp với hệ thống cửa trời lắp kính dạng nan chớp cho các khu vực này luôn sáng sủa và thông thoáng, phía trên có mái che rộng tới gần mép vỉa hè để khách hàng đi lại mà vẫn tránh được mưa nắng. Tầng 2 và tầng 3 là những cửa sổ lớn mở ra hành lang bên rộng 1,5m cho phép các phòng làm việc phía trong với hệ thống cửa rộng mở có thể đón được ánh sáng tự nhiên và gió mát từ hồ Gươm thổi vào. Các cửa sổ này đều được trang trí với liều lượng vừa phải nhưng rất tinh tế theo truyền thống Art Deco. Trên các cửa đều có tấm che nắng di động có thể điều chỉnh khi bị nắng chiếu, đặc biệt với mặt đứng phía Tây nhìn ra hồ Gươm. Kết thúc mặt đứng là hàng ô văng rộng tới 1,5m có hoạ tiết trang trí phía dưới, vừa tạo ra một sự kết thúc khoẻ khoắn vừa có ý nghĩa che nắng cho tường nhà. Trên mái là dàn hoa bê tông cốt thép chạy dài theo ba mặt phố tạo sự duyên dáng cho mái đồng thời mang lại khả năng che nắng cho mái. Sự hài hoà về mặt kiến trúc, tính khoẻ khoắn trong bố cục không gian, sự biến đổi mạnh về hình thức giữa các tầng, lại được đặt ở giữa trung tâm thương mại của Thành phố, có thể coi đây là công trình nhà làm việc, cửa hàng điển hình nhất ở Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc.
Năm 1938, toà nhà trụ sở công ty sửa chữa ô tô AVIAT do kiến trúc sư F.A. Walker thiết kế được hoàn thành. Toạ lạc ở giao lộ giữa hai phố lớn của Hà Nội lúc bấy giờ là đại lộ Gambetta (phố Trần Hưng Đạo) và đại lộ Henri Rivière (phố Ngô Quyền), toà nhà được bố cục theo hình chữ nhật bao lấy sân trong, tuy nhiên chỉ có ba mặt bám lấy các tuyến phố là bố trí các phòng làm việc, mặt còn lại chỉ bố trí cầu thang, công trình phụ. Chính sảnh của toà nhà quay ra đại lộ Gambetta nhưng toàn bộ lối tiếp cận cho xe cộ lại quay ra đại lộ H.Rivière. Tầng 1 chỉ bố trí một số phòng làm việc của nhân viên ở phía trước toà nhà, toàn bộ phần còn lại là một không gian liên thông, phía trên là hệ vì kèo thép lợp tôn và kính để lấy được ánh sáng tự nhiên. Các phòng làm việc được bố trí trên tầng 2 và tầng 3 với bố cục hành lang giữa ở cánh nhà chính hướng ra đại lộ Gambetta, hai cánh phụ được bố cục theo kiểu hành lang bên. Liên hệ giữa các tầng ngoài cầu thang chính đặt ở chính sảnh còn có hai thang phụ ở cuối hai cánh nhà.

Ảnh 5: Trụ sở công ty AVIAT (nay là trụ sở bộ Khoa học và Công nghệ) 
Được thiết kế theo phong cách Art Deco nhưng bố cục của toà nhà lại theo phong cách đối xứng nghiêm ngặt, cách tổ chức mặt đứng cũng vẫn còn chịu ảnh hưởng của Tân Cổ điển với phần tầng 1 chắc đậm với lượng mở cửa rất nhỏ, phía trên là hàng cột vượt qua hai tầng đỡ lấy tầng mái với hàng cửa thông gió được trang trí bằng thép cuốn và kết thúc bởi một sê nô rộng trang trí rất tinh tế bằng hàng gạch gốm chạy phía dưới.
Mặc dù còn chịu ảnh hưởng ít nhiều của phong cách Tân Cổ điển nhưng toàn bộ toà nhà vẫn toát lên vẻ mạnh mẽ, khoẻ khoắn theo phong cách Art Deco. Những nét hình học kinh điển được sử dụng triệt để cùng với lượng cửa sổ mở rất lớn tạo cho công trình dáng vẻ hiện đại. Những vấn đề của kiến trúc nhiệt đới cũng được lưu tâm thoả đáng với tầng cách nhiệt mái cao tới 2,1m có cửa mở ra các phía, toàn bộ cửa sổ đều có cấu tạo che nắng di động theo cả trục ngang lẫn trục đứng, một điều hiếm thấy ở kiến trúc Hà Nội cho đến tận ngày nay. Với ưu thế về mặt vị trí, với những thành công trong sử lý bố cục không gian, hình khối và mặt đứng, toà nhà trụ sở hãng AVIAT có thể được coi là một đại diện lớn của kiến trúc Art Deco ở Hà Nội.
Năm 1930, một bệnh viện lớn được xây dựng ở Hà Nội theo mô hình Bệnh viện - Đại học ở Pháp (Centre Hospitalier Universitaire), bệnh viện René Robin. Bố cục tổng mặt bằng theo dạng phân tán, các toà nhà chính của bệnh viện được bố trí gần đăng đối theo trục trung tâm. Nhà hành chính 2 tầng được bố trí chính giữa. Các khối điều trị được bố trí ở 3 phía của toà nhà này, gồm khối các phòng khám và điều trị chuyên khoa bên trái, khối phòng điều trị ngoại khoa bên phải và khối điều trị nội khoa bố trí phía sau nhà hành chính tạo thành một tam giác cân. Các khối điều trị được tạo thành bởi 4 dãy nhà theo trục dọc và một dãy nhà theo trục ngang theo hình răng lược, bên cạnh các phòng khám, điều trị, trong mỗi khối đều có một giảng đường. Dọc theo trục chính phía sau khối điều trị nội khoa là một giảng đường lớn và các phòng xét nghiệm. Kết thúc trục này là một khối phòng mổ hình tròn 2 tầng: Tầng 1 gồm các phòng tiểu phẫu và một phòng đại phẫu được bố trí ở trung tâm, phía trên là các ô kính hình tròn để sinh viên có thể quan sát từ tấng 2. Tầng 2 bố trí hai giảng đường 100 chỗ và một số phòng ở cho sinh viên nội trú. Tuy nhiên do điều kiện chiến tranh, khối này chưa kịp hoàn thiện và đưa vào sử dụng. Nối giữa các khối là hệ thống hành lang cầu rộng rãi cho phép đi lại và vận chuyển bệnh nhân một cách dễ dàng.

Ảnh 6: Bệnh viện René Robin (nay là bệnh viện Bạch Mai) 
Đây là một tổng thể kiến trúc theo phong cách Art Deco được xây dựng trên diện tích khá lớn và theo mô hình phân tán duy nhất của Hà nội lúc bấy giờ. Các khối nhà đều có sảnh vào riêng được bố cục theo dạng hành lang giữa kết hợp hành lang bên. Phong cách kiến trúc giản dị toát lên vẻ hiện đại của công trình. Tuy nhiên tác động của khí hậu nhiệt đới cũng đã được tác giả tính đến với hệ mái cách nhiệt hai lớp, phía trên cửa sổ đều có kết cấu che nắng ngang, đặc biệt khối bệnh phòng được bao bọc bởi hệ ban công, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho sinh hoạt của bệnh nhân vừa tạo ra một không gian đệm cho khối phòng này. 
Một điểm nhấn kiến trúc đáng lưu ý là khối nhà mổ chính có cấu trúc không gian hình tròn kiểu tán xạ với hành lang rộng tới 3,9m bao quanh hệ thống phòng mổ đặt ở trung tâm. Hệ thống cửa kính lấy ánh sáng và thông gió tự nhiên được bố trí theo kiểu nhịp ba rộng rãi, ngoài ra còn có hệ thống lấy ánh sáng từ phía trên bằng các ô kính hình tròn cho phòng mổ trung tâm. Mái được kết thúc bằng một dãy lan can với những hình trang trí nhẹ nhàng. Hệ thống hành lang cầu được cấu trúc theo kiểu cuốn vòm liên tục kết hợp với hệ cột đứng cũng là một nét đẹp riêng của công trình này.
Trên đây là việc điểm lại 5 công trình mà chúng tôi coi là tiêu biểu cho kiến trúc công cộng Art Deco ở Hà Nội, ngoài ra còn khá nhiều những công trình khác cũng có những thành công nhất định và góp phần đáng kể vào bộ mặt kiến trúc khu vực trung tâm Thủ đô. Khảo sát tại hiện trường của chúng tôi 1 cho thấy các công trình  Art Deco không chỉ có giá trị về mặt kiến trúc mà còn đem lại những bài học về các giải pháp đáp ứng khí hậu nhiệt đới.  Tuy nhiên, do không được đánh giá đúng mức trong giai đoạn trước đây nên một số công trình đã bị dỡ bỏ một cách đáng tiếc như nhà hàng Godard (sau này là Bách hoá tổng hợp), hay bị cải tạo đến mức biến dạng hoàn toàn như khách sạn Splendide (khách sạn Hoà Bình ngày nay).
Trong cơn lốc “cao ốc hóa” khu vực trung tâm Hà Nội đang diễn ra hiện nay, nếu các cơ quan chức năng của Hà Nội không đưa ra được một chính sách bảo tồn hợp lý thì những công trình Art Deco danh tiếng một thời vẫn có thể bị phá bỏ để nhường chỗ cho các cao ốc thương mại hoặc chí ít cũng bị nhấn chìm trong rừng cao ốc xung quanh. Thật tiếc lắm thay!

Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội

Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội

Trong quá trình kiếm tìm những hình thức kiến trúc mới đầu thế kỉ 20 nhằm thoát ly khỏi Chủ nghĩa Cổ điển đã đã ngự trị kiến trúc thế giới trong suốt hơn 400 năm trước đó, chủ thuyết Art Deco đóng một vai trò quan trọng. Ảnh hưởng của kiến trúc Art Deco đã thoát ly ra khỏi phạm vi một quốc gia hay một châu lục, những phương cách biểu hiện của Art Deco cũng không chỉ giới hạn ở những công trình kiến trúc thông thường mà còn vươn tới những toà nhà chọc trời ở Mỹ, một biểu tượng của công nghệ xây dựng mới nhất thời bấy giờ.

Ảnh 1: Biệt thự trên phố Đặng Dung
Mặc dù mang danh Art Deco và chịu nhiều ảnh hưởng của các trào lưu kiến trúc trước đó như lập thể, trừu tượng, biểu hiện..., kiến trúc Art Deco không tự giới hạn mình vào các hình thức trang trí đơn thuần mà khẳng định tính tiên phong của mình bằng những khối hình học kinh điển trong bố cục không gian. Những băng cửa rộng chạy theo chiều ngang hay chiều dọc trên mặt đứng kết hợp với các hình thức trang trí bằng thép uốn hay việc sử dụng màu sắc cũng là những phương cách biểu hiện mới của Art Deco.

Ảnh 2: Biệt thự trên phố Chu Văn An
Hà Nội những năm 1930 dưới thời thịnh trị của chủ nghĩa thực dân Pháp, bản qui hoạch đầu tiên của kiến trúc sư E. Hébrard đã bắt đầu hình thành trên thực địa với những với những đại lộ, những con phố mang đậm phong cách Pháp. Mặt đường trải nhựa thẳng tắp, vỉa hè rộng rãi với hai hàng cây xanh, thật khác xa những con đường chật chội trong khu phố cũ. Những lô đất ở đây tiếp tục được lấp đầy bởi các biệt thự, những lô lớn có diện tích tới 5 - 700 m2, thậm chí hàng nghìn m2 phân bố ở khu vực quận Ba Đình và một phần quận Hoàn Kiếm hiện nay, những lô đất nhỏ hơn cỡ 2 - 400 m2 phân bố ở khu vực phía dưới quận Hoàn Kiếm và quận Hai Bà Trưng hiện nay.

Ảnh 3: Biệt thự 2 tầng trên phố Lý Thường Kiệt
Kiến trúc biệt thự trên các lô đất này cũng bắt đầu thay đổi. Nhà mái dốc theo phong cách địa phương miền bắc nước Pháp rõ ràng là không thích hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam. Nhà theo phong cách Tân cổ điển với những hình thức trang trí rườm rà lại càng không thích hợp. Việc tìm tòi một hình thức nhà ở mới thích hợp với khí hậu địa phương trở nên cấp thiết, và những biệt thự theo phong cách Art Deco với những cải biên cho phù hợp với điều kiện khí hậu nhiệt đới Việt Nam tỏ ra rất thích hợp trong giai đoạn này.
 
Ảnh 4: Một biệt thự trên phố Chu Văn An bị thêm vào tầng mái một cách tuỳ tiện / Ảnh 5: Chi tiết dàn hoa trên mái
Biệt thự kiểu Art Deco ở Hà Nội có thể được chia thành hai loại theo dây chuyền công năng. Loại công năng hoàn chỉnh - hợp khối và loại công năng không hoàn chỉnh - phân tán. Loại biệt thự công năng hoàn chỉnh thường do các kiến trúc sư người Pháp thiết kế, được xây dựng trên những lô đất có diện tích lớn của các chủ nhân người Pháp hoặc quan lại người Việt (ảnh 1, 2, 3). Loại công năng không hoàn chỉnh và phân tán được xây dựng ở những lô đất có diện tích nhỏ hơn và chủ nhân là người Việt (ảnh 4). Điều này cũng giải thích cho việc bố trí khối nhà phụ tách ra khỏi khối nhà ở rất gần gũi với kiến trúc nhà ở cổ truyền Việt Nam, nó tạo ra một hình thức kiến trúc Hoà trộn (mixte) giữa kiến trúc Pháp và kiến trúc Việt.
 
Ảnh 6: Chi tiết trang trí lồng cầu thang / Ảnh 7: Chi tiết trang trí cầu thang chính 
Về bố trí mặt bằng thì loại biệt thự công năng hoàn chỉnh – hợp khối thường có 3 tầng: Tầng 1 (tầng trệt) bố trí nhà  xe rộng có thể để được tới 2 xe hơi, bếp, phòng ở gia nhân cho nhiều người, khu vệ sinh, kho… có chiều cao tương đối thấp (khoảng 3 m), tầng này còn có tác dụng ngăn cách sàn tầng ở tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, ngăn cản hữu hiệu hiện tượng đọng sương trên mặt sàn thường xảy ra trong điều kiện thời tiết ẩm ướt vào cuối mùa đông, đầu mùa xuân ở Hà Nội. Tầng 2 bố trí phòng khách lớn, phòng sinh hoạt gia đình, giữa hai phòng này thường được liên hệ bằng một cửa đi rộng, phòng ăn bố trí gần cầu thang nội bộ để thuận tiện cho việc đưa đồ ăn từ bếp lên. Tầng 3 là các phòng ngủ trong đó phòng ngủ chính có cửa đi trực tiếp vào khu vệ sinh. Trên tầng thượng thường có một “phòng trà” diện tích khoảng trên chục m2, cửa sổ mở rộng ra các phía, được tổ chức như một nơi tụ tập các thành viên trong gia đình hoặc bạn bè ăn uống nhẹ vào những buổi tối đẹp trời. Giao thông theo chiều đứng ngôi nhà được đảm trách bởi hai cầu thang, cầu thang chính rộng tới khoảng 2m dẫn từ sân trước lên phòng khách, lan can cầu thang được xây bằng gạch và trang trí rất tinh tế bằng hoa văn hoặc các chậu cây cảnh (ảnh 7). Cầu thang nội bộ bố trí phía trong nhà có chiều rộng nhỏ hơn và thông từ tầng 1 lên tầng thượng.

Ảnh 8: Chi tiết trang trí lan can
Loại biệt thự công năng không hoàn chỉnh - phân tán thường có khối nhà chính 2 tầng: Tầng 1 bố trí  phòng khách và phòng ăn có diện tích không lớn, tầng 2 bố trí các phòng ngủ, khu vệ sinh được tách thành hai phần xí tắm riêng biệt và phục vụ chung cho cả tầng, cầu thang bố trí trong nhà và liên hệ thẳng từ tầng 1 tới sân thượng. Khối nhà phụ nằm phía sau khối chính là nơi bố trí nơi để xe, kho, bếp, khu vệ sinh, phòng ở gia nhân và liên hệ với khối nhà chính qua sân trong.
Về tổ hợp hình khối không gian thì biệt thự Art Deco ở Hà Nội thường sử dụng các khối hình vuông hoặc chữ nhật cho các không gian ở kết hợp với các khối hình bán nguyệt là nơi bố trí lồng cầu thang tạo thành một hình thức kiến trúc mang tính hiện đại và giản dị.
Ngôn ngữ trang trí chủ đạo của biệt thự Art Deco là sử dụng các đường cong làm bớt đi vẻ thô nặng của các khối hình hộp. Vật liệu trang trí chủ yếu là thép uốn với nhiều hình thức phong phú, đôi khi những mảng phù điêu bằng thạch cao hoặc xi măng cũng được sử dụng, kính màu thì chỉ có lác đác ở một vài công trình. Phần mái được tô điểm thêm bởi dàn cây bằng bê tông cốt thép và những hoạ tiết trang trí bằng vữa đắp. Ở những biệt thự lớn thì dàn cây xanh còn được bố trí ở sân vườn hoặc ngay tại sảnh tầng 2 (ảnh 5 và 10).
 
Ảnh 9: Chi tiết trang trí cửa đi / Ảnh 10: Chi tiết trang trí sân vườn 
Phần mái bằng được cấu tạo đặc biệt để phù hợp với khí hậu nhiệt đới Việt Nam cũng là một trong những đặc trưng quan trọng của biệt thự Art Deco ở Hà Nội. Mái được cấu tạo bởi hai lớp bê tông cốt thép đổ tại chỗ cách nhau khoảng 0,4 đến 0,6 m, giữa hai lớp này là các lỗ thoáng được đặt ở hai phía đối diện hoặc ở cả 4 phía của ngôi nhà, bên ngoài được trang trí bằng cả chất liệu và mà sắc rất thú vị. Cũng do cấu tạo mái bằng ở kiểu biệt thự này mà lần đầu tiên khái niệm sân thượng được đưa vào kiến trúc nhà ở Việt Nam. Sân thượng cho phép người ở có được những hoạt động tiếp xúc với thiên nhiên vào buổi sáng và buổi tối ngay tại nhà mình, một điểm rất đáng lưu ý trong cuộc sống đô thị. 
Biệt thự Art Deco ở Hà Nội là một phần của di sản kiến trúc thời kỳ Pháp thuộc, tuy nhiên số lượng biệt thự còn giữ nguyên được dáng dấp ban đầu còn rất ít, chủ yếu là ở khu vực ngoại giao đoàn, đa phần các biệt thự do người Việt Nam ở đã biến dạng và xuống cấp trầm trọng. Do sự thiếu hiểu biết về các đặc trưng của Art Deco nên trong nhiều trường hợp cải tạo hoặc phục dựng một số biệt thự, các nhà thiết kế đã đưa vào những chi tiết kiến trúc rườm rà, xa lạ với phong cách Art Deco, làm hỏng những ngôn ngữ biểu cảm của loại biệt thự này. Thành phố cũng cần có những sách lược nhằm giữ cho di sản biệt thự Art Deco không “biến mất” trong tương lai gần vì đa số các biệt thự đều đã có tuổi thọ trên 70 năm.


Ghi chú: 
  • Ảnh trong bài của Trần Quốc Bảo, Đào Thái Hà, Trần Chí Toàn, Phạm Trường Minh
  • Hình vẽ trong bài của Đào Thái Hà
ThS.KTS Trần Quốc Bảo
Giảng viên chính Khoa Kiến trúc và Qui hoạch, Đại học Xây dựng / Nhóm nghiên cứu Kiến trúc Hà Nội cận - đại (GRAH) 

Phố cổ Hà Nội vẫn chờ tôn tạo

Phố cổ Hà Nội vẫn chờ tôn tạo

Giorgio Parodi - Chủ tịch Hội Kiến trúc sư thành phố Genova- Italia kể rằng, ông bị Hà Nội “mê hoặc” bắt đầu bằng một bài viết về Hà Nội, về Ô Quan Chưởng đăng tải trên một tờ báo lớn ở Italia. Chính hình ảnh về phố cổ, về Ô Quan Chưởng đã thôi thúc ông đến với Hà Nội, và với kinh nghiệm cải tạo và bảo tồn thành phố cổ Genova 20 năm trước, Đại sứ quán Italia và Hội Kiến trúc sư Genova đang có những nghiên cứu cho việc đề xuất cải tạo phố cổ Hà Nội.

Phố cổ Hà Nội đang chờ được tu bổ từng ngày

Kinh nghiệm “hồi sinh” từ Genova


Genova là thành phố cổ, lớn thứ nhì của Italia, nơi được nhiều du khách đánh giá là “đáng để đi xem”. Với những di sản như Cung điện Mannerist, Nhà thờ Thánh Lorenzo, Bảo tàng nghệ thuật phương Đông, cảng cổ Genova - nơi có ngọn hải đăng từ thời cổ đại, cùng các khu phố cổ... năm 2006, UNESCO đã chính thức công nhận nơi đây là Di sản văn hóa thế giới. Theo Chủ tịch Hội Kiến trúc sư thành phố Genova - Giorgio Parodi để Genova huy hoàng như hôm nay, cả chính quyền lẫn người dân đã phải mất 20 năm nỗ lực tôn tạo và bảo tồn...

Bắt đầu từ sau Thế chiến thứ 2, các giải pháp tu bổ thành phố cổ này đã được đặt ra, nhưng rồi chưa ai trả lời được câu hỏi: “bảo tồn cái gì?” và “bảo tồn như thế nào?”. 20 năm trước Genova cũng phải đối mặt với những vấn đề hệt như phố cổ Hà Nội bây giờ, tức là… đau đầu để tìm ra kế sách hài hòa giữa bảo tồn và phát triển, bảo tồn nhưng phải nâng cao hơn nữa điều kiện sống cho người dân. Và chìa khóa cho sự thành công của Genova chính là “sự ủng hộ tích cực của người dân”. Không bảo tồn toàn bộ cả thành phố, chính quyền này chỉ chọn ra có 48 công trình cổ có giá trị nhất đưa vào danh sách đặc biệt. Số còn lại tùy theo giá trị kiến trúc mà có những biện pháp hỗ trợ khác nhau.

Có những con phố, người dân tự bỏ tiền ra tu bổ, bởi họ nhận thức được rằng, việc bảo tồn này mang lại lợi ích cho họ thông qua phát triển du lịch. Công việc tu bổ Genova khá kỳ công, rồi tu bổ đến đâu, xây dựng cơ sở dữ liệu đến đó. Ngay cả các hộ gia đình tự bỏ tiền ra cải tạo cũng phải theo “chuẩn” và sự giám sát của chính quyền thành phố, Hội Kiến trúc sư. Tất cả hồ sơ cải tạo nhà sau đó phải được lưu trong trung tâm dữ liệu phố cổ. Để trả lại cho Genova vẻ cổ kính như nó vốn có các nhà máy, xí nghiệp trong thành phố đều phải di chuyển sang nơi khác... Genova đã thực sự trở thành một bảo tàng sống bởi vẫn bảo đảm được cuộc sống cho người dân, các nghề thủ công truyền thống, các quán bar mang dáng dấp xưa vẫn hoạt động trong lòng phố cổ.

Ngẫm chuyện bảo tồn phố cổ Hà Nội

Khi đánh giá về giá trị của khu phố cổ Hà Nội, tất cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều có chung nhận định rằng, đây chính là khu phố đặc trưng với cấu trúc đô thị cổ phong kiến. Dù đã qua cả chặng đường phát triển dài với bao thăng trầm, nhưng vẫn giữ được tổng thể. Nhưng rồi, gần 20 năm qua, Hà Nội vẫn cứ loay hoay tìm đường bảo tồn phố cổ, càng bàn càng... rối, bởi chúng ta còn lúng túng giữa việc gắn kết không gian tổng thể với từng kiến trúc đặc trưng. Ngay cả việc thống kê có bao nhiêu ngôi nhà cổ thực sự có giá trị để đưa vào danh sách bảo tồn mà số liệu mỗi năm một khác. Hay như việc đơn giản hơn là thống kê các di tích ở khu phố cổ thôi vẫn rất lúng túng, mỗi năm một con số, năm 1995 chỉ có 24 di tích, nhưng đến 2008 con số này đã lên tới 104 và năm 2009 vừa qua, con số thống kê đã là 121 di tích cần được bảo tồn tại đây.

Theo gợi ý của các kiến trúc sư đến từ Genova, việc bảo tồn phố cổ cần có sự kết hợp tổng thể giữa không gian chung, giữa cái vật thể và phi vật thể như lễ hội, không gian sống... giữa kiến trúc truyền thống kết hợp khai thác các yếu tố mới. Bên cạnh đó, tuân thủ theo các tiêu chí như: Giữ gìn hình dáng kiến trúc; Bảo tồn di tích; Giữ hình ảnh phong cách kiến trúc cổ; Cải tạo hạ tầng, thí điểm làm một vài nhà, một vài ô phố, tuyến phố…

Theo TS-KTS Đào Ngọc Nghiêm, một số vấn đề mà các KTS người Italia đưa ra Hà Nội đều làm, cũng có cái thành công. Nhưng cái mà chúng ta thiếu đó là chưa huy động được sự tham gia của người dân - chủ thể của phố cổ vẫn cứ đứng “ngoài cuộc” với tất cả các dự án từ trước tới nay.

Bắt đầu từ năm 1995, Hà Nội bàn tới chuyện bảo tồn phố cổ. Cũng từ đó cho đến nay, không biết đã có bao nhiêu dự án, bao nhiêu quy hoạch cho nơi này được xây dựng. Nếu tính nhẩm, cũng đã có hàng chục quốc gia tham gia giúp đỡ, đề xuất ý tưởng để cải tạo phố cổ Hà Nội. Nhưng rồi, vẫn chỉ dừng trên giấy... bởi tất cả những quy hoạch phố cổ trước đây đều đi chậm hơn so với sự phát triển của xã hội một nhịp, dẫu có nhiều văn bản pháp quy, nhưng việc tu bổ, tôn tạo phố cổ Hà Nội vẫn thiếu một hành lang pháp lý cụ thể. KTS Đào Ngọc Nghiêm cho rằng, sắp tới với việc xây dựng quy hoạch chung Thủ đô đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050 cùng với sự ra đời của Luật Thủ đô chắc chắn sẽ rộng đường cho việc cải tạo phố cổ.